Thứ Sáu, 24 tháng 8, 2018

Thầy Tiền - Thầy Dọa & Thầy Con nhà Thánh


Vai trò của người thầy trong tâm linh Đạo Mẫu được đặt ở vị trí đặc biệt quan trọng, là sứ giả của các bậc tiên thánh trên con đường dẫn trình con nhang để tử tiếp cận thế giới tâm linh... phần lớn việc thành bại của canh đàn khoá lễ được đặt lên vai của người thầy, và cũng chính từ đó yêu cầu tối thượng là đồng nhân phải lựa chọn cho mình một người thầy hợp duyên, đúng mệnh, đủ tâm, trí, Đức để dẫn trình con nhang đệ tử... 
tuy nhiên với thực trạng hiện nay, rất nhiều người thầy được vẽ lên như là một bức tranh xấu xí, biếm họa bởi những xuất phát điểm của các thầy từ lòng tham, sự u mê và trên hết là chính các thầy đã không tin vào thế giới tâm linh, không tin vào luật nhân quả hiện tiền... điều đó đã mang lại cho chúng ta những loại Thầy Tiền, thầy dọa, thầy điêu ngoa chua chát... 







THẦY TIỀN
Đến với Đạo là phúc nhưng cũng là nghiệp 
Đến với thầy là duyên nhưng cũng là nghiệp... việc chọn thầy không hề dễ dàng bởi " đáy biển tuy sâu nhưng người đời đo được - lòng người tuy ngắn nhưng chẳng ai đo được bao giờ" 
Ngày nay việc tìm đến Tâm linh là một lựa chọn rất thời cuộc của rất nhiều người, ngoài các gia chủ làm lễ Thông thường thì cũng còn rất nhiều gia chủ bản thân có căn mệnh nhà Thánh, "phải cắt tóc làm tôi nối đời làm lính" tìm được thầy tốt như mò kim đáy bể... 
Với một số thầy!!! Việc khai đàn mở phủ lại trở thành một món hời, một mâm cỗ đầy đủ sơn hào hải vị để cho các thầy lao tâm dốc sức mang về cho bản thân bằng những lời lẽ ngon ngọt, bằng những viễn cảnh huy hoàng... người thì ra đồng được mặt hoa, da phấn... kẻ ra đồng thì phúc lộc đề đa, công thành danh toại... kẻ khác ra lại có lộc trời cho... ăn trên ngồi trước, xưng bá xưng hùng, trời đất quỷ thần cũng phải tán thán tung hô... sau tất cả những lời lẽ bọc đường ấy!!! Các thầy thường dành cho gia chủ một cái giá khá cao để khai đàn mở phủ, xuất thủ trình đồng... các thầy đã đánh đúng lòng tham của con người, lấy lòng tham để dụ lòng tham... quả thật các thầy cao tay ấn!!! 


THẦY DOẠ
Lại có!!! 
Một số thầy thương con nhang còn hơn con đẻ, thấy con nhang như nắng hạn thấy mưa rào... nào là con ra đi kẻo gia đình ly tán, phải làm lễ không thì vận hạn khó qua... 
rồi nào là công danh đổ vỡ, rồi bệnh tật ốm đau, rồi ra điên, ra dại... tất cả cũng chỉ vì một điều!!! Con ơi ra làm lễ... 
lại một lần nữa thầy nói đúng!!! Bản chất của con người sợ sóng gió, sợ gian nan, sợ mất đi những gì đang có... thôi thì có thờ có thiêng có kiêng có lành!!! Thà cứ tin là có còn hơn nghĩ là không để sau này hối hận!!! 
Ấy vậy là các thầy lại có cỗ để xơi!!! 



THẦY CON NHÀ THÁNH
Các thầy vẫn ngồi đó, vẫn ngày đêm dạy người, dạy đời, vẫn vùi mài kinh sử, chắt lọc tinh hoa... dạy người phải sống bằng tâm, bằng Đức... lấy thiện làm đầu. Lấy tâm làm trọng... 
chính sự sáng suốt không màng danh lợi, coi khinh vật chất mà tâm thầy sáng, phúc thầy dầy... "chỉ số tín nhiệm" của thầy đối với nhà ngài chỉ kêu một tiếng bằng người đời lễ ngài vạn bái!!! 
"Giống như ông trưởng phòng được ông Giám đốc tin tưởng vì sự trung thành, vì tài năng xuất chúng thì ông trưởng phòng đề nghị một câu bằng ông nhân viên viết hàng ngàn đề xuất"
Nhìn vậy mới thấy!!! Thầy có nhiều loại... cứ nhìn vào gia cảnh của thầy thì Sẽ hiểu phúc thầy dày mỏng đến đâu? Nhìn vào con nhang của thầy để thấy thầy tài cán đến đâu? Nhìn vào cách nói chuyện của thầy để thấy thầy văn hoá đến đâu? Nhìn vào cách làm việc của thầu để thấy thầy "trọng thánh đến đâu?"
Xét lại!!! Thầy dởm thì nhiều... thầy tốt cũng nhiều!!! Phúc mỏng nghiệp dày mà không thuận tâm kêu cầu lễ bái, nhất tâm tưởng vạn tâm thành thì hiển nhiên gặp thầy không vuông tròn quả phúc!!! 
Các cụ nói... "ngưu tầm ngưu - mã tầm mã" đúng là cây nào thì quả ấy chẳng sai chút nào!!!

Trên đây là ý kiến cá nhân không nhắm vào bất kỳ ai? Rất mong các thầy hoan hỷ!!! 
Tự minh ân chúc các thành viên trong nhóm thân tân an lạc, vạn sự cát tường!!!

MA NHẬP VÀ CĂN SỐ


Trong cuộc đời của mỗi người, không hiếm lần mọi người rùng mình, kinh hãi chứng kiến cảnh người khác, hay chính bản thân bị "ma" nhập... hiển nhiên đó là những hiện tượng không bình thường, có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn tới sự việc này như trên đất có tà tinh, do oan gia trái chủ, do hợp duyên và thậm chí là mượn thân người để cầu cứu người trần thực hiện một việc gì đó!!!
Tất cả những sự việc trên trong con mắt của những nhà khoa học thì được gọi là hoang tưởng, các nhà tâm lý học thì cho rằng bị tâm thần phân liệt, Bác sĩ thì bảo bị tâm thần... tuy nhiên dưới con mắt tâm linh, chúng ta thường hiểu đó là hiện tượng ma nhập, ốp vong....
Tuy có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến bị Ma nhập, nhưng tất cả đều xuất phát từ một yếu tố đó là " đồng thanh tương ứng - đồng khí tương cầu" có nghĩa rằng tại một thời điểm con người ta "đồng dạng" năng lượng với một năng lượng khác thì được gọi là hợp... cũng chính vì cái sự hợp ấy mà việc bị ma nhập, vong ốp mới được diễn ra!!!

MA & CĂN QUẢ
Ngày nay Đạo Mẫu phát triển trên con đường tác động sâu, rộng vào tư tưởng của người dân Việt, đưa con người từ sự đam mê vật chất trở lại với sự bồi dưỡng thân tâm, giúp tinh thần được bồi bổ, tình cảm được nảy nở hướng chúng ta về nguồn cội, sống hoà nhập với thiên nhiên, là chỗ dựa tinh thần cho lớp lớp người dân Việt đến khi mỏi gối lưng đau!!!
Tuy nhiên việc xác định căn đồng lại là một bài toán vô cùng khó... không có một phép tính, một công thức hay số đo nào xác định được chính xác căn quả của đồng nhân, càng khó khăn gấp vạn phần để xác định vị Thánh cầm bản mệnh của nhân vật ấy!!!
Chúng ta vẫn thường nhầm lẫn rất cơ bản rằng người bị ốp, bị ma nhập là người có căn số!!! Đấy là sự ngộ nhận rất đáng tiếc bởi hai chủ thể khác nhau, một bên là tà ma, một bên là căn đồng số lính... tuy nhiên hai chủ thể này có chung một sự liên quan mật thiết với nhau, đó là "vật chủ" có một năng lượng đồng dạng với năng lượng cõi giới vô hình!!! 

Những người được gọi là có căn số nhưng không có giác quan, cảm nhận thậm chí là mối liên hệ với thế giới tâm linh thì việc căn số ấy là hoàn toàn không chính xác...
những người bị tà ma nhập, việc đồng dạng năng lượng chỉ xảy ra tại một thời điểm nhất định, hoặc họ là những người theo những tôn giáo khác thì cũng không thể quy chụp được là người có căn số!!!
Do vậy. Việc căn số hiển nhiên không hề liên quan đến các hiện tượng ma nhập thông thường... và khi bị nhập ốp, kể cả là gia tiên và người ngoài thì việc bị nhập đấy không hẳn là người có căn đồng số lính!!!
"P/s: đi xem bói mà trình bày bị ốp nhiều thì hay bị phán là có căn số lắm"
Tuy nhiên cũng có những trường hợp bị ốp, nhập là biểu hiện của việc căn số, là tín hiệu đầu tiên cho thấy nhân vật bị ốp có sự điều chỉnh năng lượng phù hợp với năng lượng cõi âm, những người này thường rất nặng âm, nếu đi đám ma, đám giỗ hoặc đi đền phủ thường bị các vong ốp...
trường hợp này cần có sự soi xét của những thầy biết soi căn nối quả, ngoài ra phải có sự kiểm chứng của bản thân như: hiện tượng ốp xảy ra khi nào? Đối tượng ốp là ai? Mục đích ốp là gì? Thường bị ốp ở đâu? Ngoài bị vong ốp ra thì người bị ốp có được báo gì Thông qua gia tiên, hay các kênh Thông tin khác không?
Từ những dữ liệu nêu trên để xác định việc ốp nhập liệu có liên quan đến căn đồng số lính!!!
Như vậy để chúng ta hiểu rằng!!! Việc bị ma nhập không hiển nhiên là căn đồng số lính... mà đó đôi khi chỉ là sự đồng dạng nhất thời!!!
Để giải quyết nội dung trên, chúng ta cần có thời gian, sự tổng hợp các dữ liệu... và điều tiên quyết là phải bình tâm phân tích kèm theo những trải nghiệm bản thân... không nên ngộ nhận bởi xảy một ly, đi một dặm... và những người bị ốp nhập ấy, thường là người bị tổn thương về tinh thần và tài chính nặng nề nhất!!!
Vài lời tự luận!!! Tự Minh Ân mong mọi người hoan hỷ!!!

TÌM THẦY


A di đà phật!!! Các cụ thường dạy (không thầy đố mày làm nên) trong tâm linh việc tìm thầy lại là đòi hỏi cấp thiết và tiên quyết trên con đường tu thân học đạo của lính ghế nhà ngài. 
Mỗi người có quan điểm tìm thầy học đạo khác nhau, có người tùy duyên gặp thầy nào hợp tình, hợp lý là thầy trò nhận nhau, có bạn thấy thầy hot quá, hầu đẹp, múa dẻo, đông con nhang, sang đệ tử mà đem lòng tôn kính mà nhận là sư phụ...
Lại có bạn vừa bước vào cửa đạo, nghe sự hứa hẹn làm lễ sẽ đắc tài sai lộc mà sinh tâm mong cầu nhận lầm ma qủy làm thầy.
Vậy việc chọn thầy phải chăng khó thế!!!
Trước tiên add đề cập đến vai trò của người thầy trong đạo Mẫu của Chúng ta.
Trong đạo Mẫu chúng ta thường nghe câu « kính thánh - trọng thâỳ» hay (trên theo phật thánh dưới theo đồng thầy) điều này chứng tỏ người thầy đóng vai trò rất quan trọng trong hệ thống tín ngưỡng của đình thần tam tứ phủ. 
Thầy là người tái sinh, là người mẹ thứ hai trong cuộc sống của chúng ta thông qua việc khai đàn mở phủ, xuất thủ trình đồng... Sau cái lễ tái sinh trong thế giới tâm linh ấy, chúng ta như những cô cậu học sinh cắp sách tới trường, bắt đầu làm quen với ngôi nhà của Mẫu thông qua sự dìu dắt của thầy, từ các quy định, lề lối phép tắc, sự kiêng khem, đến lời ăn tiếng nói, lời kêu tiếng khấn phải chuẩn chỉ, nghiêm túc theo đúng khuôn khổ mà thầy đặt ra... Thầy cũng chính là người kêu thấu, tấu nổi, dẫn trình đồng tân lính mới đến các cung các cửa, đến đền to phủ lớn mà kêu thay, lạy đỡ trình khăn trình áo xin bề trên cởi trói cho lính ghế nhà ngài... 
Thầy cũng là người dìu dắt những canh đàn khóa lễ đầu tiên của đồng tân lính mới như là một cách truyền pháp để thực hiện nhiệm vụ cứu khổ, độ mê...
Quan trọng hơn cả cha mẹ ruột cho chúng ta thể xác, thầy là người cho chúng ta đạo đức ở đời!!!
Là chỗ dựa cho chúng ta khi khó khăn, là động lực cho chúng ta khi được cha mẹ đề tâm khai sáng...
Việc chúng ta cư xử có chuẩn mực, có đạo đức, có lề lối hay không chính là sự phản chiếu thái độ của Chúng ta với thầy, và khả năng, trình độ và cái tâm cái đức của người thầy... Ví thử như chúng ta thấy những cảnh hầu đồng nhảy nhót như ma nhập, những khóa lễ không thể diễn tả thành lời thì than ôi phù hợp lắm với câu: 
Trứng rồng lại nở ra rồng
Liu điu lại nở ra dòng liu điu
Vậy vị trí của người thầy giữ vai trò tối quan trọng trong hệ thống đình thần tam tứ phủ. 
Nhưng chúng ta phải tìm thầy như thế nào? Câu hỏi này chắc hẳn có hàng vạn bạn đang muốn tìm câu trả lời!!! Vì thường có câu... Xảy một ly, đi một dặm... Các bạn chọn sai thầy, giống như các bạn chữa bệnh mà mua không đúng thuốc... Bệnh vẫn ngày càng nặng, mà tiền vẫn mất...


CHỌN THẦY
Điều đầu tiên các bạn tìm thầy thì luôn luôn hiểu rằng, tìm thầy là các bạn muốn nương nhờ cái tâm cái đức của thầy để yên căn, yên số, yên sổ thiên đình, vậy những người có tâm là ai,có đức là ai? Nếu những người có tâm thì không bao giờ làm việc thánh mà coi đó là một nghề, không tư lợi cá nhân, không bòn rút của con nhang đệ tử, làm mọi việc phải đặt cái uy, cái danh của nhà thánh mà hành đạo đúng lề lối,phép tắc, biết yêu thương đồng loại, cứu khổ, độ mê, đau nỗi đau của Chúng sinh mà hành thiện cứu người... Nếu thầy là người có đức thì nhìn thầy đối xử với cha mẹ, với tổ tiên của thầy, nhìn thấy cuộc sống của thầy xem bề trên ban cho người có đức có giống những gì thầy đang có...
Thầy là người am hiểu về đạo, lề lối, phép tắc được thể hiện qua cách thầy Giao tiếp, nội dung thầy giải thích, cách thầy bày biện, thờ cúng đến việc thầy thực hiện những canh đàn khóa lễ mà chúng ta được chứng kiến, được tận mục sở thị
Thầy là người được cha cắt mẹ cử ắt hẳn có điện có phủ, biết soi căn nối quả, và sinh con mát tay... (nhìn đồng anh lính chị)
Thầy là nam hay nữ là tùy quan điểm của từng người, cũng như việc hợp tuổi, hợp mạng cũng là quan điểm cá nhân và hợp với quan điểm trần gian theo quy luật ngũ hành chứ không phải quy định của nhà Thánh vì quyền phép nhà ngài biến hóa vô cùng, có thể cải hung thành cát, cải họa vi tường....
Vậy chúng ta bắt đầu tìm các bạn nhỉ?
Nhiều bạn cứ tìm, cứ tìm nhưng duyên không tới, gặp không ưa thì biết tìm ở đâu???? Dạ thưa các cụ có câu. Thứ nhất là tu tại gia - thứ hai tu chợ - thứ ba tu chùa. 
Chúng ta thực hành luôn việc tu tại gia thông qua việc hiếu thuận cha mẹ, hiếu kính tổ tiên, năng kêu cầu lễ bái gia tiên, bà cô tổ dẫn đường chỉ lối gặp được ông có đức, gặp được bà có nhân để dẫn đường con tới cửa cha cửa mẹ.
Thứ hai tu chợ: nơi chốn xô bồ ấy, đời động mà tâm không động, tu tâm, tu khẩu, hành thiện tránh ác, làm nhiều việc thiện đẩy lùi nghiệp chướng để sớm được hưởng phúc đức ắt gặp thầy tốt.
Thứ ba tu chùa: đến đền đến phủ, mang miệng đến tâu, mang đầu đến lạy phải kêu cầu cha trên thiên mẹ dưới hạ giới đề tâm khai sáng, cắt cử để con gặp được thầy có tâm có đức để sớm ra hầu cửa cha cửa mẹ... 


Các bạn cứ từng bước một. Ắt việc sẽ thành.
Có một số bạn vừa ra mở phủ, nhưng vì tâm chưa định và sự thị phi của xã hội thông qua môi trường internet dẫn đến mất niềm tin vào thầy, điều này cực kỳ nguy hiểm.
Chúng ta đều biết nhân vô thập toàn, chúng ta có thể nhầm nhưng nhà ngài không nhầm... Việc chọn sai, u mê lầm lỗi âu cũng là nghiệp quả của Chúng ta, chỉ có sự nhất tâm kêu cầu mới hóa giải được nghiệp chướng này nhưng chúng ta không thể tái sinh lần nữa, cũng như cha mẹ chúng ta sinh ra chúng ta, giờ chúng ta lại chui vào để sinh lại là điều không thể.... Hãy nhất tâm kêu bề trên xoay chuyển, sau này gặp được thầy hợp duyên (sau khi tạ ba năm) chỉ cần nhờ thầy phủ lại khăn cũng đã đủ chuyển họa thành phúc....
Điều quan trọng nhất của tất cả các bạn đang tìm hiểu về đạo là phải nhìn nhận đúng về đạo. Không phải các bạn cứ ra mở phủ là có quyền phép trong tay, có thể xem bói, tìm mộ, kiều vong, bắt ma.... Cũng không phải ra hầu cha mẹ xong là các bạn hanh thông mọi việc, cầu tài đắc tài, cầu lộc đắc lộc.... Mà nên nhớ, hầu cha mẹ vừa là phúc, vừa là nghiệp.... Nếu là người thường thì hãy cứ là người thường, đừng vì đua đòi mà trình đồng mở phủ, cũng đừng hoang tưởng hoặc bị ám ảnh bởi một số bộ phim viễn tưởng mà muốn làm con nhà thánh, đừng vì bói toán mà u mê lầm lối trôi dạt vaò cõi vô minh. Những bạn căn quả thì thật bình tĩnh, cần tĩnh tâm xâu chuỗi các diễn biến, đừng để bị mê hoặc bởi lời hứa của những kẻ buôn thần, bán thánh, cũng đừng để tâm mong cầu che lấp ánh sáng tâm linh.... Thật tĩnh tâm, để phân tích cái gì là quy luật của tự nhiên, cái gì là hiện tượng xưa nay không giải thích được... Từ đó nhất tâm kêu cầu, tu tâm, tạo phước... Ắt các bạn sẽ thành công.
Vài lời Tự Minh Ân chia sẻ. Mong các bạn hoan hỷ!!!
Nam Mô Thiên Tiên Thánh Mẫu Đại Từ Tôn!!!

CĂN ĐỒNG "DUYÊN VÀ NGHIỆP"


Ngày nay việc khai đồng mở phủ, xuất thủ trình đồng không còn hiếm gặp, bởi tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Tứ Phủ đã ăn sâu vào tư tưởng của người Việt... cũng là bởi cây có cội, nước có nguồn... mà Tín Ngưỡng Thờ Mẫu thì luôn làm con người ta nhớ về nguồn cội!!! 
Việc khai đồng mở phủ ngày nay đôi khi được khai mở một cách vội vã bởi nhiều lý do khác nhau dẫn đến những hệ lụy khác nhau mà người chịu nhiều hoang mang, tiền mất tật mang lại là những người thiếu hiểu biết, u u mê mê chưa rành lề lối, chưa tỏ đường đi...


ĐỒNG LÀM VIỆC THÁNH
Một trong những căn đồng rõ nhất đấy là đồng sau khi khai hồ mở phủ thì được ăn lộc nhà ngài, có bổn phận, nghĩa vụ thực hiện các công việc nhà thánh như cứu dương, độ âm... cứu khổ độ mê... những người này thường có lộc soi, lộc bói lộc gọi hồn, chữa bệnh... có những trường hợp khi chưa ra đồng nhưng đã được ăn lộc ( gọi là đồng nổi). 
Những người này thường bị cơ đầy khổ cực, khó khăn vạn phần nhằm tu tâm, rèn chí, có những người bệnh tật triền miên không thuốc nào chữa khỏi, lại có người dở điên, dở dại nói chuyện tâm linh thì rành mà nói chuyện đời thì như trẻ vỡ lòng... có những người cửa tan, nhà nát... vợ chồng ly tán, sự nghiệp tan tành tất cả Âu cùng là trả nghiệp cho đời (-) trước khi khởi tâm thiện cứu khổ độ mê... 
Những đồng nhân này sau những khổ cực nơi trần thế, họ nhận ra chân lý, thấy được sự linh ứng của phép Thánh mà nhất tâm phụng sự cửa đình thần Tam tứ Phủ, ăn cơm của Thánh, sống Trong nhà Thánh và chết làm Ma Tứ phủ... họ nhất nhất một lòng vì đạo, đây chính là những thanh đồng thường rất giỏi, nhưng đa số lại có những điều kiện kinh tế khó khăn vì sau thời gian cơ hành kinh tế dần cạn kiệt, khi được ăn lộc do đã biết về quyền tiên phép thánh nên không dám buôn thần bán thánh, mà chỉ một đời làm phúc cứu người, cuộc sống thanh tao đạm bạc... 
Đấy là những đồng nhân rất đáng cứu và đáng quý bởi họ chính là những người con thực sự của đạo, họ sống để học đạo, giữ đạo và truyền đạo. Khi về thế giới bên kia vẫn để lại tiếng thơm cho đời... 


ĐỒNG BẢN MỆNH
Lại có những trường hợp cũng có cơ hành khổ cực, bởi nghiệp duyên đời đời kiếp kiếp, vẫn chắc trở tình duyên, vẫn sa cơ lỡ bước, nhiều trường hợp công danh sự nghiệp đang trên những nấc thang đỉnh cao, quyền lực hô một câu ngàn kẻ cúi đầu... nhưng bất chợt... phải ngồi ghế nóng... 
Những người có căn mệnh nhà ngài như vậy, phải trả nghiệp, phải chịu cơ... để biết đường mà tìm về nguồn cội, tìm về chốn nhân tâm của bản thân mà ra quy đầu làm tôi nhà Thánh... những thanh đồng này sau khi ra Hầu Cha Hầu Mẹ thì được yên bản mệnh, làm ăn được thuận buồm xuôi gió, bản mệnh được bình an, gia đạo được khang thái cát tường... dù không làm những công việc tâm linh, nhưng đồng bản mệnh lại chiếm phần đông trong đạo, góp phần chấn Hưng Đạo Mẫu, những thanh đồng này thường có điều kiện kinh tế vững vàng, công danh Bổng lộc đề đa... đây cũng chính là những người thường có canh đàn khoá lễ sang cung, đẹp sở... tốt đạo đẹp đời!!! 


ĐỒNG TRẢ NGHIỆP
Có lẽ nghe chữ đồng trả nghiệp nó quá mới để hiểu cặn kẽ cũng như thấu đáo, Tự Minh Ân xin được gọi như thế bởi trong khi ĐỒNG LÀM VIỆC THÁNH - ĐỒNG BẢN MỆNH ngày đêm xây đạo, cứu đời, tô điểm cho đời bằng cách làm tròn việc Đạo thì ĐỒNG TRẢ NGHIỆP lại là sự tập hợp của rất nhiều loại người ra đồng bởi mục đích hoặc bị ra đồng bởi mục đích, trong số đó rất nhiều thanh đồng ra hầu là vì sự đua đòi, vì mốt của giới trẻ, rất nhiều thanh đồng ra vì muốn được làm tôi ông thánh để từ đó đường đường chính chính mà loè người, dọa đời hòng tìm nguồn thu nhập, lại có một số người nghiệp chướng tích tụ bị các thầy dởm lừa ma dọa quỷ phải bất đắc dĩ phải ra mà sau đó mới biết mình lầm đường lạc lối... 
Những đồng trả nghiệp này cũng chiếm tỷ lệ không nhỏ trong đạo, họ được sinh ra không bởi số mệnh thiên định, mà bởi lòng tham, bởi sự u mê... chính vậy họ không quyền không phép, không lề lối... chỉ sau một thời gian ra đồng nhưng chỉ thấy tiền đội nón qua nhà thầy mà mình thì không có gì thay đổi, họ sinh ra mất niềm tin vào thầy, nghi ngờ sự linh ứng, ánh sáng nhiệm màu của đạo... từ đó mà sinh ra loạn tâm, làm ăn lụi bại, dẫn đến nhiều hệ lụy như xoay khăn tái khoá, tiếp tục đi mở phủ cho người khác bằng chính món nghề mình học được khi bị lừa, thậm chí quay lưng lại với tâm linh, phỉ báng thánh thần... 
Sơ lược vậy để Thấy không phải ai ra đồng cũng làm thầy, không phải ai ra đồng cũng hợp duyên đúng mệnh... Đạo Mẫu không giống bất kỳ đạo giáo, tôn giáo nào trên Hành tinh này bởi Đạo Mẫu chính là sự phản ánh về tinh thần, đời sống, xã hội... ở hiền gặp lành, gieo phúc hưởng phúc!!!! 
Con đường duy nhất vào đạo đấy là sự sáng suốt, tỉnh táo bằng trái tim và khối óc, xuất phát từ sự mưu cầu hạnh phúc chính đáng... ở đó chân lý của đạo Sẽ mang mọi Thanh đồng đến bên bờ giác, chân thiện mỹ cũng từ đó mà ra!!! 
Vài lời tản mạn --- Tự Minh Ân --- chúc các ông đồng, bà đồng, các thanh đồng đạo quan tháng tiệc thoải Mậu Tuất Niên được thân tâm khang thái, mệnh vị được bình an, phúc thọ được tăng trưởng... 
Đằng Giang vọng từ ngày 19/06/2018

ĐỀN THỜ QUAN LỚN ĐỆ TAM

Đền Lảnh Giang, Đền Xích Đằng thờ Quan Lớn Đệ Tam

      Quan Lớn Đệ Tam hay còn gọi là Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ. Đền thờ chính của Quan Lớn Đệ Tam là Đền Lảnh Giang, Đền Xích Đằng.

Đền Xích Đằng 
     Sự tích xuất xứ hai đền Lảnh Giang và đền Xích Đằng

       Theo truyền thuyết kể lại thì trong một trận đánh, ông đã bị chết trận, xác ông bị chém làm đôi rồi ném trôi sông, phần đầu trôi dạt vào bãi sông thuộc làng Xích Đằng (phường Lam Sơn, Thành phố Hưng Yên), dân làng đã lập đền thờ tưởng nhớ ông. Còn phần thân dạt vào ven sông thuộc thôn Yên Lạc (xã Mộc Nam, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam), cũng được dân làng chôn cất và lập đền thờ tưởng nhớ, đó là đền Lảnh Giang.

       Tóm tắt về thần tích Quan Đệ Tam

       Quan Lớn Đệ Tam vốn là con trai thứ ba của Vua Cha Bát Hải Động Đình, là người rất được vua cha yêu quý nên giao quyền cai quản chốn Long Giai Động Đình, cận bên cạnh phụ vương. Dưới thời Hùng Vương, theo lệnh vua cha, ông cùng hai người em (có sách nói là hai người thân cận) lên giúp Vua Hùng chỉ huy thuỷ binh, lúc này ba vị giáng ở đất Hà Nam, được nhân dân tôn thành “Tam Vị Đại Vương”, trong đó, Quan Đệ Tam là người anh cả trong ba người.
 
Nội cung Đền Xích Đằng

      Nhưng lại có điển tích nói rằng, chỉ có một mình Quan Tam Phủ giáng trần vào nhà quý tộc dưới thời Hùng Vương, ông trở thành vị tướng quân thống lĩnh ba quân thuỷ lục. Sau đó trong một trận quyết chiến, ông hy sinh (phần thượng thân (đầu) và hạ thân (mình) trôi về hai bên bờ con sông Lục Đầu). Ông hoá đi, về chầu Long Cung, là người cầm cân nảy mực, thông tri Tam Giới, quyền cai các thanh đồng đạo quan. Vậy nên có khi người ta còn gọi là Ông Cai Đầu Đồng. 

      Thần tích về Quan Đệ Tam tại đền Lảnh Giang

       Căn cứ tài liệu " Hùng triều nhất vị thuỷ thần xuất thế sự tích” đang được lưu giữ tại Đền Lảnh Giang thì huyền tích về Quan lớn Đệ tam tóm tắt như sau:
     Ngày xưa, ở trang An Cố, huyện Thuỵ Anh, phủ Thái Ninh, trấn Sơn Nam có vợ chồng ông Phạm Túc ăn ở phúc đức, nhưng không có con.
     Một đêm, vợ ông là bà Trần Thị Ngoạn đang dạo chơi bỗng gặp một người con gái mồ côi đi tha phương cầu thực. Động lòng trắc ẩn, bà Ngoạn liền đón cô về làm con và đặt tên là Quý. Vài năm sau, đột nhiên ông Túc mắc bệnh rồi qua đời. Hai mẹ con đã tìm một nơi đất tốt để an táng cho ông.
Đền Lảnh Giang

    Sau ba năm để tang cha, một hôm nàng Quý ra bờ sông tắm gội, ngâm mình dưới nước, bỗng mặt nước nổi sóng, từ phía xa một con thuồng luồng khổng lồ bơi tới quấn lấy nàng, khiến nàng kinh hoàng ngất lịm. . Từ hôm đó nàng Quý mang thai. Không chịu được những lời gièm pha khinh thị, nàng đành phải trốn khỏi làng đến xin ngụ cư ở Trang Hoa Giám (nay thuộc thôn Yên Lạc). Rồi đến ngày mùng 10 tháng Giêng năm Tân Tỵ, nàng Quý chuyển dạ, sinh ra một cái bọc. Cho là điểm chẳng lành, nàng liền đem chiếc bọc đó quẳng xuống sông. Chiếc bọc trôi theo dòng nước tới trang Đào Động (xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, Thái Bình), mắc phải lưới của ông Nguyễn Minh. Sau nhiều lần gỡ bỏ, nhưng bọc vẫn cứ mắc vào lưới. Ông Minh thấy lạ bèn khấn: “Nếu bọc này quả là linh thiêng thì cho tôi lấy dao rạch thử xem sao” Khấn xong ông Minh rạch ra, bỗng thấy ba con rắn từ trong bọc trườn xuống sông. Con thứ nhất theo hướng về cửa sông Đào Động, con thứ hai về Thanh Do, con thứ ba về trang Hoa Giám – nơi nàng Quý đang sinh sống. Nhân dân các trang ấp trông thấy đều sợ hãi, cùng nhau ra bờ sông tế tụng, xin được lập sinh từ để thờ.
         Lạ thay, vào một đêm trăng sáng, trời bỗng nổi cơn giông, ngoài cửa sông sấm sét nổi lên dữ dội. Đến gần sáng, gió mưa ngớt dần, mọi người đều thấy dưới sông có tiếng người ngâm vịnh:
Sinh là tướng, hóa là thần
Tiếng thơm còn ở trong dân muôi đời
Khi nào giặc dã khắp nơi
Bọn ta mới trở thành người thế gian
       Tương truyền ba vị tướng thời Hùng là con của Bát Hải Long Vương và Nàng Quý. Nàng Quý là con nuôi của vợ chồng ông Phạm Túc. Do vậy về sau nhân dân ghép họ Phạm cho các ông.
       Bấy giờ Thục Phán có ý định cướp ngôi vua Hùng Duệ Vương. Thục Phán cầu viện binh phương Bắc đánh vào kinh đô. Duệ Vương bèn lập đàn cầu đảo. Đêm ấy nhà vua chiêm bao thấy có người sứ giả mặc áo xanh từ trên trời bước xuống sân rồng, truyền rằng: “Nhà vua nên triệu ba vị thuỷ thần sinh ở đạo Sơn Nam, hiện còn là hình con rắn thì tất sẽ dẹp xong được giặc”. Tỉnh dậy Duệ Vương liền cho sứ giả theo đường chỉ dẫn trong giấc mộng tìm về đạo Sơn Nam. Sứ giả vừa đến trang Đào Động (nay thuộc xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình), bỗng nhiên trời đổ mưa to, sấm sét nổi lên dữ dội ở cửa sông. Một người mặt rồng mình cá chép, cao tám thước đứng trước sứ giả xưng tên là Phạm Vĩnh, xin được đi dẹp giặc. Sau đó, ông Phạm Vĩnh gọi hai em đến bái yết thân mẫu, rồi cùng nhau đi yết kiến Duệ Vương.  Hai em và các tướng hợp lại, dưới sự chỉ huy của ông, quân Thục đều bị tiêu diệt.
      Vì có công lớn nên nhà vua lại phong cho ông là “Nhạc Phủ Ngư Thượng Đẳng Thần” nhưng ông không nhận, chỉ xin cho dân Đào Động hàng năm không phải chịu sưu dịch. Được vua Hùng đồng ý, ông Phạm Vĩnh cùng hai em về quê hương bái yết thân mẫu và khao thưởng gia thần, dân chúng.
      Ngày 25 tháng 8 năm Bính Dần, trong lúc ông đang ngự tại cung thất của mình, bỗng dưng giữa ban ngày trời đất tối sầm, mưa gió ầm ào đổ xuống. Khi trời quang mây tạnh, dân làng không nhìn thấy ông đâu nữa. Cho là điều kỳ lạ, nhân dân trang Đào Động làm biểu tâu với triều đình.
     Được tin ông Phạm Vĩnh về trời, nhà vua liền gia phong cho ông là “Trấn Tây An Tam Kỳ Linh Ưng Thái Thượng Đẳng Thần”, đồng thời đặt lệ quốc lễ, ban sắc chỉ cùng 400 quan tiền cho dân Đào Động rước thần hiệu, tu sửa đền miếu để phụng thờ. Các triều đại sau đó cũng có sắc phong cho ông (hiện trong đền còn giữ 12 sắc phong. Sắc sớm nhất là đời Lê Cảnh Hưng, sắc muộn nhất vào triều Nguyễn, niên hiệu Duy Tân thứ 7.

   Các đền thờ vọng Quan Lớn Đệ Tam

       Quan Lớn Đệ Tam ngoài hai đền chính là Xích Đằng và Lảnh Giang còn được thờ vọng ở khá nhiều nơi: Đền Cửa Đông tại thành phố Lạng Sơn, Đền Lâm Du thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội và Đền Tam Kì thuộc thành phố Hải Phòng, đền Quan Lớn - Phủ Dầy......

     Đền Xích Đằng

       Toàn bộ ngôi đền được xây dựng trên một khu đất rộng, kiến trúc nếp nhà cao, thoáng đãng, tăng thêm vẻ hoành tráng cho ngôi đền.
      Tam quan được xây dựng theo kiểu chồng diêm hai tầng tám mái là khoảng sân đền có đặt đôi rùa đá và đôi nghê đá ngày đêm canh gác cho sự uy linh của ngôi đền. Cung thứ nhất là ban công đồng các quan, tiếp đến là cung Tam tòa Thánh mẫu, cung thứ ba thờ Quan Lớn Đệ Tam, cuối cùng là cung cấm đặt tượng của Ngài được đúc bằng đồng. Ngoài các ban thờ chính còn có các ban thờ khác: Ban chúa Sơn Trang, ban Vương ông nhà Trần, ban thờ ông Hoàng Mười, Hoàng Bảy…
      Trong đền có rất nhiều hiện vật giá trị: Hai quả chuông đồng, hệ thống các bức đại tự, câu đối được sơn son thiếp vàng ca ngợi công đức của Ngài với dân với nước. Trong khuôn viên ngôi đền còn có cây cổ thụ là sự hợp thân, quấn quýt lấy nhau của năm loại cây: Đa, Sung, Khế, Cọ, cây lá nón bao trùm lên mái ngôi đền, tỏa bóng râm mát.

      Đền Lảnh Giang

      Đền Lảnh Giang còn có tên gọi là Lảnh Giang linh từ, tọa lạc tại thôn Yên Lạc, xã Mộc Nam, huyện Duy Tiên. Đền thờ Tam vị danh thần là ba anh em Quan Lớn Đệ Tam và thờ Tiên Dung công chúa và Chử Đồng Tử
      Đây là một công trình kiến trúc đồ sộ, uy linh. Tam quan xây theo kiểu chồng diêm tám mái, các đầu đao cong vút thanh thoát hình đầu rồng đắp nổi, đan xen mặt nguyệt, lá lật cách điệu mềm mại. Phía trước Tam quan là hồ bán nguyệt, nước hồ phẳng lặng như bàn ngọc thạch bày lên những đóa hoa súng đỏ tươi. Giũa hồ, ngọn bảo tháp đứng trầm mặc được nối với cửa đền bằng chiếc cầu cong tạc hình lưỡi long hướng địa, ẩn hiện dưới bóng cây si già hàng ngàn năm tuổi.
       Đền Lảnh Giang được xây dựng theo kiểu nội công ngoại quốc gồm 3 tòa, 14 gian, hai bên có nhà khách, lầu thờ, 4 bên có tường gạch bao quanh. Trong đền có nhiều đồ thờ giá trị như tượng Tiên Dung công chúa, khánh long đình, khám đặt tượng thờ 3 vị tướng thời Hùng vương được chạm khắc công phu theo phong cách đời Lê. Ngoài ra đền còn giữ được hai kiệu bát cống long đình, một sập thờ và nhiều hoành phi, câu đối, nhang án.
      Đến Đền Lảnh Giang chúng ta có thể đến chiêm ngưỡng đền thờ Cô Bơ Thoải Phủ ngay bên Đền Lảnh Giang. Xung quanh đền Lảnh Giang còn có Đền Đức Vua Cha thờ vua Lê; Đền thờ Ngọc Hoa Công chúa, em gái của Tiên Dung Công Chúa; đền thờ Trần Khánh Dư, một vị tướng của Trần Hưng Đạo.

     Ngày tiệc Quan Lớn Đệ Tam

     Ngày tiệc của Quan Lớn Đệ Tam là ngày 24/6 âm lịch (tương truyền là ngày đản nhật giáng sinh của ông).

TỨ PHỦ THÁNH CẬU


        Trong Đạo Mẫu, Tứ Phủ Thánh Cậu đứng sau Ngũ Vị Tôn Quan, Tứ Phủ Thánh Chầu, Tứ Phủ Quan Hoàng, Tứ Phủ Thánh Cô.
      Tứ Phủ Thánh Cậu gồm có 12 Thánh Cậu. Các Thánh Cậu là các hình tượng nam thiếu niên, nhanh nhẹ, xông xáo, mạnh mẽ, hiếu động và thường là hầu cận của một vị thánh quan trong Tứ Phủ Quan Hoàng. Thân thế, thần tích về các Thánh Cậu trong Tứ Phủ Thánh Cậu hầu như không có tài liệu ghi chép lại.
       Tứ Phủ Thánh Cậu về quy định thì có 12 Cậu, nhưng việc xác định các cậu được thờ chính ở những đền nào thì không cụ thể. Thường thì các cậu ngự tại Lầu Cậu tại các đền phủ. Trong lầu cậu thường có thể thờ tượng một cậu hay nhiều cậu. Cậu hầu ai trong đền thì hầu như không có sự tích như các cô bé. Chính thế, cậu nào ngự ở đền phủ nào thì được gọi là cậu bản đền của đền phủ đó.
       Đền thờ riêng của các cậu trong Tứ Phủ Thánh Cậu hầu như rất ít so với đền thờ các cô trong Tứ Phủ Thánh Cô. Trong Đạo Mẫu, hình tượng các cậu mờ nhạt hơn rất nhiều so với các cô. Thậm chí khi hầu đồng, các cô vẫn được hầu nhiều hơn, các cậu luôn hầu sau các cô. Cũng có thể việc này là do ảnh hưởng văn hóa Mẫu hệ từ thời thượng cổ.
        Các cậu thường hầu cận các Quan Hoàng trong Tứ Phủ Quan Hoàng và khi đó tên các cậu được đi theo tên ngôi thứ của các Quan Hoàng và chính là Cậu Bản Đền. Ví dụ: Đền Quan Hoàng Bơ Phủ có Cậu Hoàng Bơ Phủ. Tuy nhiên, tại các đền thờ Mẫu, thờ Cô, thờ Chầu hay thờ các Quan Lớn trong Ngũ Vị Tôn Ông thì Lầu Cậu thường là thờ Cậu Bé Bản Đền.
       Các cậu trong Tứ Phủ Thánh Cậu thường được coi là các Hoàng Tử nơi chốn thiên cung được Vua Cha Ngọc Hoàng cử xuống hạ giới để giúp dân an cư, lạc nghiệp hay dẹp giặc và được đón về trời khi còn tuổi thiếu niên, hoặc được đưa xuống hầu cận các vị quan. Nhưng đôi khi các cậu được coi là các cậu hầu cận một vị quan nào đó, hay nổi danh vì giúp dân, giúp nước chứ không cứ là Hoàng Tử chốn thiên cung được phái xuống. Ví dụ: Cậu bé Trường Sinh nơi Đền Cậu Tây Thiên.
      Các cậu thường hay giáng đồng là các cậu: Cậu Hoàng Cả, cậu Hoàng Đôi, Cậu Hoàng Bơ, Cậu Hoàng Tư, Cậu Bé. Còn các cậu khác hầu như không giáng đồng.

Hầu giá Cậu Hoàng
        Trang phục của các Cậu khi giáng hầu thường giống nhau: Áo cánh, đầu vấn khăn đầu rìu, chân quấn xà cạp, đi hài thêu hoa...và chỉ khác nhau ở mầu áo theo ngôi vị mà thôi. Trong diễn xướng, các cậu thường múa hèo, múa gậy, bắn cung, nhảy ngựa...và hò reo vang lừng. Riêng Cậu Bơ Thoải thì có chèo đò, hay giăng lưới bắt cá.
         Các Thánh Cậu là ngôi thấp nhất trong Tứ Phủ, và cũng rất ít người biết đến các Cậu. Rất ít các cậu trong Tứ Phủ Thánh Cậu được thờ riêng một đền phủ.
       Nổi tiếng nhất trong Tứ Phủ Thánh Cậu có lẽ chỉ có: Cậu bé Đồi Ngang ở Phủ Đồi Ngang. Cậu bé Đồi Ngang được coi là con của Thánh Mẫu Liễu Hạnh khi Mẫu giang sinh lần thứ ba. Ngoài ra, có thể kể đến Cậu bé Lệch ở Cung Mẫu tại đền Trần Triều ở khu du lịch tâm linh đền Suối Mỡ.

TỨ PHỦ THÁNH CÔ


      Bài viết này nói về thân thế của các Thánh Cô trong Tứ Phủ Thánh Cô. Tứ Phủ Thánh Cô gồm Thập Nhị Thánh Cô (Mười hai cô). Trong Đạo Mẫu, Tứ Phủ Thánh Cô đứng sau Ngũ Vị Tôn Ông, Tứ Phủ Chầu bà, Tứ Phủ Quan Hoàng, đứng trên Tứ Phủ Thánh Cậu.

1. Cô Đệ Nhất Thượng Thiên

         Cô Nhất Thượng Thiên. Cô cũng vốn là con Vua Cha dưới Thủy Tề dưới Thoải Cung, được phong là Thiên Cung Công Chúa trên Thiên Đình. Có người nói rằng cô cũng với Cô Chín hầu cận bên cạnh Mẫu Đệ Nhất Thiên Tiên (tức Mẫu Liễu Hạnh) lại có nơi quan niệm cô là Tiên Cô kề cận, tay biên tay chép kề bên Chầu Đệ Nhất Thượng Thiên (tuy nhiên do có quan niệm là Mẫu Đệ Nhất cũng chính là chầu cho nên hai ý kiến này hầu như là thống nhất với nhau). Cô giá ngự trong cung tòa, cận bên Mẫu cho nên khi đến các đền phủ người ta thường có lời tấu để cô kêu thay lạy đỡ trước cửa Vua Mẫu Đình Thần Tứ Phủ. Khi thanh nhàn cô cưỡi gió cưỡi mây rong chơi khắp chốn, từ Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Ninh, Nghệ An, Thanh Hóa cho đến tận Quảng Bình, Quảng Trị, Bình Định, Gia Định...
        Cô là tiên cô thần thông lục trí, cô chấm đồng người nết na thảo hiền rồi đem về tiến Mẫu trong Đền Mẫu Sòng Sơn. Cô Nhất khá ít khi ngự đồng, chỉ những người sát căn cô mới hay hầu cô hoặc trong các dịp khai đàn mở phủ Cô Nhất về chứng đồng tân lính mới. Khi ngự về Cô Nhất mặc áo màu đỏ (áo gấm hoặc áo lụa thêu phượng), đầu đội khăn đóng (khăn vành dây), thắt khăn và vỉ lét đỏ. Cô làm lễ khai cuông rồi múa quạt. Cô Nhất thường được thờ vào ban Tứ Phủ Thánh Cô ở trong các bản đền.
       Cũng có một số người nói rằng có đền cô là Đền Cô Nhất ở trong đất Nghệ An giáp Thanh Hóa với món đặc sản bánh ngào.

2.Cô Đôi Thượng Ngàn

          Cô Đôi Thượng Ngàn vốn là con Vua Đế Thích trên Thiên Cung, được phong là Sơn Tinh Công Chúa.  Sau cô giáng sinh xuống đất Ninh Bình làm con gái nhà một chúa đất ở chốn sơn lâm.

Cô Đôi Thượng Ngàn
         Thần tích về Cô Đôi Thượng Ngàn: Khi ấy tỉnh Ninh Bình có một vị quan lang họ Hà người Mường, ông nổi tiếng khắp vùng về nhân đức, phát tâm thiện nguyện, cứu giúp dân nghèo. Hai ông bà đã vào chạc ngũ tuần, nhưng vẫn chưa có một mụn con cho vui cửa vui nhà. Hai ông bà bèn lập đàn tế trời, cầu khẩn. Ngọc Hoàng trên thiên giới cảm cách mà nghe được những lời này mới sai cô xuống hạ giới, đầu thai làm con ông bà để thưởng cho cái đức độ, tiết tháo của ông. Mười hai tháng sau bà bẩm thụ thiên khí mà có thai, sinh ra cô. Khi cô sinh hạ có một đôi chim khách đến đậu trước cửa nhà cô mà hót mãi không thôi, như mừng đấng tiên nữ giáng sinh phàm trần. Năm cô lên bốn tuổi, gia định vị quan lang chuyển tới làm quan ở Huyện Cao Phong, châu Mai Đà, tỉnh Hưng Hóa. Ở trên vùng cao, nước sinh hoạt thiếu thốn, dưới chân núi Đầu Rồng lại có con suối nước thần, nước trong mát quanh năm, người dân ở đó thường ra suối gánh nước về dùng, cô cũng thường ra đó gánh nước về giúp đỡ ông bà.
         Thời gian thấm thoát đã trôi qua, năm đó cô mười hai tuổi mà đã xinh đẹp tuyệt trần da trắng, tóc mượt, mặt tròn, lưng ong thon thả. Đức Mẫu Thượng Ngàn muốn thử lòng người trần gian, độ cho người có tâm, bèn hóa thành một bà lão đói khát, bệnh tật nằm lả ở gốc cây đa dưới chân núi Rồng. Bà nằm đó kêu rên từng tiếng khó nhọc, cầu mong sự giúp đỡ của mọi người qua lại, thế nhưng chẳng ai chịu ra tay cứu giúp bà. Đúng vừa lúc cô ra suối gánh nước thấy bà lão đáng thương, cô động lòng thương cảm bèn quỳ xuống vực bà ngồi dậy, cho bà uống nước. Bất chợt tự nhiên trời đất tối xầm, mây đen kéo tới, gió bụi cuốn lên mù mịt bà lão hiện thành Tiên Chúa Thượng Ngàn và nói với cô: "Ta là đức Diệu Tín Thiền Sư Lê Mại Đại Vương (tức Mẫu Thượng Ngàn), thấy con là người ngoan ngoãn, hiền lành, đức độ. Kiếp trước con là tiên nữ trên tiên giới, nghe lệnh Ngọc Hoàng mà hạ phàm báo ân cha mẹ. Nay ta độ cho con thành tiên trở về bên hầu cận bên cạnh ta, để cứu giúp nhân gian". Đoạn Thánh Mẫu rút cây gậy khắc đầu rồng bên mình ra trao cho cô. Cô nhận cây gậy rồi trở về nhà, bốn ngày sau thì hóa.

      Đền chính của Cô Đôi Thượng Ngàn

       Nổi lên trên cả là hai ngôi đền thờ cô thuộc địa phận Nho Quan, tỉnh Ninh Bình và huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình) gắn với truyền thuyết sinh hóa của Cô. Đền Bồng Lai (còn gọi là đền Bồng Lai Hạ) ở Nho Quan, Ninh Bình là nơi Cô được giáng sinh và Đền Bồng Lai Thượng ở Cao Phong, Hòa Bình là nơi Cô hóa.
     Cô Đôi Thượng Ngàn còn được thờ tại Đền Cô cách đền Mẫu Đông Cuông khoảng 500m.  Ngôi đền này được xây dựng với quan niệm rằng cô là tỳ nữ bên cạnh Mẫu Thượng Ngàn. Khu du lịch tâm linh Hàn Sơn - Thanh Hóa cũng có một ngôi đền thờ Cô. Ngoài ra, Cô Đôi Thượng Ngàn chủ yếu được phối thờ tại các cung Tứ Phủ Thánh Cô hoặc một ban riêng ở các đền phủ. 

     Truyền thuyết khác về Cô Đôi Thượng Ngàn

           Sau này Cô Đôi  quyết chí đi theo hầu Đức Diệu Tín Thuyền Sư Lê Mại Đại Vương (chính là Mẫu Thượng Ngàn, Bà Chúa Sơn Trang) học đạo phép để giúp dân. Rồi khi về thiên, cô được theo hầu cận ngay bên cạnh Mẫu Thượng Ngàn Đông Cuông Tuần Quán được Mẫu Bà truyền cho vạn phép, giao cho cô dạy người rừng biết thống nhất về ngôn ngữ (nên có khi còn gọi là Cô Đôi Đông Cuông), cũng có người cho rằng cô về theo hầu cận Chầu Đệ Nhị. Lúc thanh nhàn Cô Đôi Thượng Ngàn về ngự cảnh sơn lâm núi rừng ở đất Ninh Bình quê nhà, trong ba gian đền mát, cô cùng các bạn tiên nàng ca hát vui thú tháng ngày trên sườn dốc Bò, có khi cô biến hiện ra người thiếu nữ xinh đẹp, luận đàm văn thơ cùng các bậc danh sĩ, tương truyền cô cũng rất giỏi văn thơ, làm biết bao kẻ phải mến phục.
       Cô Đôi Thượng Ngàn cũng là tiên cô cai quản kho lộc Sơn Lâm Sơn Trang, người trần gian ai nhất tâm thì thường được Cô Đôi ban thưởng, nhược bằng có nợ mà không mau trả lễ cô lại bắt đền nặng hơn. Cô Đôi Thượng Ngàn rất hay ngự về đồng, vì danh tiếng cô lừng lẫy ai ai cũng biết đến, đệ tử cô đông vô số và cô cũng hay bắt đồng.
      Khi cô về ngự thường mặc áo lá xanh hoặc quầy đen và áo xanh (ngắn đến hông), trên đầu có dùng khăn (khăn von hoặc khăn vấn) kết thành hình đóa hoa, cũng có một số nơi dâng cô áo xanh, đội khăn đóng (khăn vành dây) và thắt lét xanh, hai bên có cài hai đóa hoa. Cô về đồng thường khai cuông rồi múa mồi, múa tay tiên hái tài hái lộc cho đồng tử.

    Muốn xem chi tiết hơn xin mời click vào các đường link này:
           Cô Đôi Thượng Ngàn
           Đền Mẫu Đông Cuông
       
3. Cô Ba Thoải Cung (Cô Bơ Bông)

        Cô Bơ Bông ( hay còn gọi là Cô Ba Thoải Cung) vốn là con Thủy Tề ở dưới Thoải Cung, được phong là Thoải Cung Công Chúa. Có người còn nói rằng, Cô Bơ Bông là con gái vua Long Vương rất xinh đẹp nết na nên được Đức Vương Mẫu (có người cho rằng đó là Mẫu Cửu Trùng Thiên) cho theo hầu cận, chầu chực trong cung cấm.

Cô Bơ Bông

      Sau này Cô Bơ Thoải giáng sinh vào thời Lê Trung Hưng, tương truyền sự tích như sau: Đức Thái Bà nằm mộng thấy có người con gái xinh đẹp, dáng ngọc thướt tha, tóc mượt mắt sáng, má hồng, môi đỏ, cổ cao ba ngấn, mặc áo trắng đến trước sập nằm dâng lên người một viên minh châu rồi nói rằng mình vốn là Thủy Cung Tiên Nữ, nay vâng lệnh cao minh lên phàm trần đầu thai vào nhà đó, sau này để giúp vua giúp nước, thì Thái Bà thụ thai.
        Đến ngày 2/8 thì bỗng trên trời mây xanh uốn lượn, nơi Thủy Cung nhã nhạc vang lên, đúng lúc đó, Thái Bà hạ sinh ra được một người con gái, xem ra thì nhan sắc mười phần đúng như trước kia đã thấy chiêm bao. Thấy sự lạ kì vậy nên bà chắc hẳn con mình là bậc thần nữ giáng hạ, sau này sẽ ra tay phù đời nên hết lòng nuôi nấng dạy dỗ bảo ban. Cô lớn lên trở thành người thiếu nữ xinh đẹp, tưởng như ví với các bậc tài nữ từ ngàn xưa, lại giỏi văn thơ đàn hát. Đến khi cô vừa độ trăng tròn thì cũng là lúc nước nhà phải chịu ách đô hộ của giặc Minh, cô cùng thân mẫu lánh vào phía sâu vùng Hà Trung Thanh Hóa, nơi ngã ba bến Đò Lèn, Phong Mục. Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh, cô đã có công giúp vua Lê trong những năm đầu kháng chiến (và có nơi còn nói rằng cô cũng hiển ứng giúp nhà Lê trong công cuộc “Phù Lê Dẹp Mạc” sau này).
      Trong dân gian vẫn còn lưu truyền lại câu chuyện sau: Vào những năm đầu khởi nghĩa, quân ta (ý nói nghĩa quân do vua Lê Lợi chỉ huy) vẫn còn yếu về lực lượng, thường xuyên bị địch truy đuổi, một lần Lê Lợi (có sách nói là Lê Lai) bị địch đuổi đến ngã ba sông Thác Hàn ở Hà Trung thì gặp Cô Bơ đang tỉa ngô liền xin cô giúp đỡ, cô bảo người lấy quần áo nông dân mặc vào, còn áo bào thì đem vùi xuống dưới ruộng ngô rồi cũng cô xuống ruộng giả như đang tỉa ngô. Vừa lúc đó thì quân giặc kéo đến, chúng hỏi cô có thấy ai chạy qua đo không thì cô bảo rằng chỉ có cô và anh trai (do Lê Lợi đóng giả) đang tỉa ngô, thấy vậy quân giặc bỏ đi. Lê Lợi rất biết ơn cô, hẹn ngày sau đại thắng khải hoàn sẽ rước cô về Triều Đình phong công và phong cô làm phi tử. Sau đó cô cũng không quản gian nguy, bí mật chèo thuyền trên ngã ba sông, chở quân sĩ qua sông, có khi là chở cả quân nhu quân lương. Có thể nói trong kháng chiến chống Minh thì công lao của cô là không nhỏ. Đến ngày khúc hát khải hoàn cất lên thì vua Lê mới nhớ đến người thiếu nữ năm xưa ở đất Hà Trung, liền sai quân đến đón, nhưng đến nơi thì cô đã thác tự bao giờ, còn nghe các bô lão kể lại là ngày qua ngày cô đã một lòng đợi chờ, không chịu kết duyên cùng ai, cho đến khi thác hóa vẫn một lòng kiên trinh.
        Người ta cho rằng, Cô Bơ được lệnh Vua Cha giáng trần để giúp vua, đến chí kì mãn hạn thì có xe loan lên đón rước cô về Thủy Cung. Sau đó cô hiển linh giúp dân chúng ở vùng ngã ba sông, độ cho thuyền bè qua lại được thuận buồm xuôi gió vậy nên cô còn có danh hiệu là Cô Bơ Bông (do tích cô giáng ở ngã ba sông) hay Cô Bơ Thác Hàn (theo tên gọi ở nơi quê nhà). Ai hữu sự đến kêu van cửa cô đều được như ý nên danh tiếng cô vang lừng khắp nơi nơi Cô Bơ luôn giá ngự về đồng, già trẻ, từ đồng tân đến đồng cựu, hầu như ai cũng hầu về Cô Bơ Bông. Khi cô giáng vào ai, dù già hay trẻ thì sắc mặt đều trở nên hồng hào tươi tốt, đẹp đẽ lạ thường. Khi cô ngự đồng, cô thường mặc áo trắng, đầu đội khăn đóng (khăn vành dây) có thắt lét trắng (có khi dùng thắt dải lưng hồng) rồi cô cầm đôi mái chèo, bẻ lái dạo chơi khắp nơi. Lúc chèo thuyền có khi có còn khoác thêm chiếc áo choàng trắng, trên khăn có cài ba nén hương, bên hông có dắt tiền đò, rồi khi chèo thuyền xong, cô lại cầm dải lụa để đi đo gió đo nước đo mây. Lúc cô an tọa người ta thường xin cô thuốc để trị bệnh, vậy nên Cô Bơ ngự về thường hay làm phép “thần phù” để ban thuốc chữa bệnh. Vì theo quan niệm nguyên xưa Cô Bơ Bông hầu cận Mẫu Thoải, lại theo sự tích nơi quê nhà cô là ở đất Hà Trung, Thanh Hóa, ngã ba Bông bến đò Lèn nên đền cô được lập ở đó, gần đền Mẫu Thác Hàn (chính là Mẫu Thoải), gọi tên là Đền Cô Bơ Bông thuộc xã Hà Sơn, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa, trước đây đường đi vào rất khó khăn, nhưng hiện giờ đã được tu sửa nên giao thông đã dễ dàng hơn
         Đền Cô Bơ là nơi thắng cảnh “trên bến dưới thuyền”, nơi giao của Ngũ huyện kê: “Một tiếng gà gáy năm huyện đều nghe” cũng với danh tiếng anh linh của tiên cô nên khách thập phương đến chiêm bái, cầu xin nhân duyên, khoa cử, làm ăn rất đông đúc. Thuyền bè dưới bến sông qua lại đều phải đốt vàng mã kêu cô, rồi những người đến kêu cầu đều dâng cô nón trắng hài cườm, võng lụa thuyền rồng.

Một thần tích khác về Cô Bơ Bông

      Theo cuốn "Lê Triều Thần Phả Ngoại Biên" được lưu giữ tại Thái Miếu họ Lê có ghi chép về thần tích cô Bơ Bông tóm tắt như sau:
        Vào khoảng năm 1432, vua Lê Lợi có một đêm mộng thấy một nữ thủy thần báo mộng: "Ta là con gái vua Thủy tề đây. Nhà vua còn nhớ là nợ ta một lời hẹn ước hay không? Bây giờ nghiệp đế vương đã thành sao chưa thấy trả". Vua Lê Lợi giật mình tỉnh dậy mới nhớ lại chuyện cũ. Ngày xưa, vào những năm đầu khởi nghĩa, Lê Lợi bị địch đuổi đến ngã ba sông Thác Hàn ở Hà Trung thì gặp cô gái xinh đẹp, đoan trang đang tỉa ngô được cô cứu thoát.
        Vua Lê Lợi để tỏ biết ơn cô, có nói với cô rằng: " Ta có một cháu trai tuấn tú, khôi ngô, văn võ song toàn. Sau này kháng chiến thành công ta sẽ gả cháu ta cho cô." Người mà Lê Lợi nhắc đến chính là tướng quân Lê Khôi, cháu trai của Lê Lợi (Tướng Lê Khôi chính là một trong các hiện thân của Quan Hoàng Mười được thờ tại đền Củi ngày nay). Cô gái ấy chính là hiện thân của Cô Bơ.
       Tương truyền rằng, sau thắng lợi, Vua Lê Lợi có quay lại tìm cô gái nhưng không thấy. Như vậy lời hứa gả cô cho tướng Lê Khôi đã không được thực hiện.
        Sau giấc mơ, biết cô gái tỉa ngô nơi xưa chính là con gái vua thủy tề, hiện thân lên cõi trần để giúp vua xây dựng nghiệp lớn, vua Lê Lợi đã phong cô là "Thượng Đằng Thần" và cho xây dựng đền Cô, để tưởng nhớ công lao của Cô.

4. Cô Tư Ỷ La, Cô Tư Địa Phủ

         Cô Tư Ỷ La cũng vốn là con vua Đế Thích chính cung. Theo lệnh vua cha, cô theo hầu Mẫu Thượng Ngàn tại đất Tuyên Quang. Về sau, nơi Mẫu giá ngự đó, người ta lập đền Mẫu Ỷ La nên cô cũng được gọi là Cô Tư Ỷ La. Tương truyền rằng, Mẫu bà rất yêu quý, thường cho Cô Tư kề cận bên mình. Vậy nên đúng như các tư liệu ghi lại thì chính xác là Cô Tư hầu cận Mẫu Thượng Ngàn chứ không phải cô hầu cận Chầu Bà Đệ Tứ Khâm Sai như chúng ta vẫn thường nghĩ. Ngoài ra Cô Tư còn có một danh hiệu khác là Cô Tư Tứ Tổng Tây Hồ. Qua ước đoán, có thể suy ra rằng danh hiệu này là do Cô Tư đã từng giáng hiện tại đất Tây Hồ, Hà Nội rong chơi, và điển hình nhất là hiện nay vẫn có ban thờ Cô Tư tại đình Tứ Liên; một ngôi đình cổ nằm ở gần Phủ Tây Hồ, Hà Nội.
          Trong hàng Tứ Phủ Tiên Cô, Cô Tư Ỷ La thường hiếm khi thấy ngự về đồng nên nếu nói về y phục cũng như cung cách khi hầu giá Cô Tư hiện giờ là rất khó. Tuy nhiên theo phỏng đoán của người viết thì có thể khi hầu giá Cô Tư Ỷ La thường mặc xiêm áo màu vàng nhạt, cô có thể khai cuông và múa mồi hầu Mẫu (đây chỉ là ý kiến cá nhân đưa ra để mọi người tham khảo). Hiện nay Cô Tư vẫn được coi là thờ chính cung hầu Mẫu Thượng Ngàn trong đền Mẫu Ỷ La thuộc thị xã Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang. Ngoài ra, như đã nói ở trên, Cô Tư còn được thờ vọng trong Đình Tứ Liên ( xưa gọi là Đình làng Ngoại Châu), phường Tứ Liên, quận Tây Hồ, Hà Nội. Khi các thanh đồng hầu tráng mạn đến giá Cô Tư,

        Xin mời xem chi tiết tại

         Cô Tư Ỷ La

5. Cô Năm Suối Lân

        Cô Năm Suối Lân vốn là tiên nữ trên trời, theo lệnh cô giáng trần là người thiếu nữ dân tộc Nùng ở xứ Lạng. Có tích lại kể rằng Cô Năm là người thị nữ thân cận bên Chầu Năm Suối Lân ( lúc sinh thời khi chầu còn là công chúa) nên cô cũng được tôn hiệu là Cô Năm Suối Lân hay Cô Năm Sông Hoá. Sau này được sắc phong hiển thánh, Cô Năm vẫn được coi là tiên cô kề cận bên cửa Chầu Năm, cô được coi là tiên cô trông giữ bản đền Suối Lân. Ngoài ra cô còn được coi là vị thánh trấn tại cửa rừng Suối Lân (cung rừng này một cửa vào là cửa Suối Lân do Cô Năm Suối Lân trấn giữ, cửa ra là cửa Thất Khê do Cô Bé Đèo Kẻng trấn giữ), vậy nên, ai đi chiêm bái trên đất Lạng đều phải qua bái yết cửa Chầu Năm và Cô Năm Suối Lân. Dòng Suối Lân do Cô Năm cai quản bốn mùa trong xanh, nước thông về sông Hoá, tương truyền rằng đây là dòng suối thiêng của cô, nước suối xanh mát bốn mùa không bao giờ cạn, nếu ai có bệnh tật đến xin nước suối cửa cô, uống vào sẽ thuyên giảm, nhược bằng, người nào không biết mà xuống suối tắm hay rửa chân tay, làm ô uế dòng suối của cô sẽ bị cô hành cho sốt nóng mê sảng. Phép anh linh của Cô Năm Suối Lân còn được biết qua việc nếu có kẻ nào báng nhạo cô sẽ “xát lá han” làm cho kẻ đó luôn ngứa ngáy không yên, rồi cô cho đi lạc đường rừng.
        Trong hàng thánh cô, thường thấy Cô Năm Suối Lân ít khi ngự đồng hơn Cô Sáu Lục Cung, thường chỉ người nào có sát căn quả về cửa Cô Năm hoặc khi về đền Suối Lân thì có thấy thỉnh bóng Cô Năm ngự đồng. Khi hầu về giá Cô Năm Suối Lân, thường người ta mặc xiêm y như màu áo của Chầu Năm (nhưng là áo ngắn vạt), đó có thể là màu xanh thiên thanh hoặc xanh lá cây, cô chít khăn củ ấu, bên mình có túi vóc, dao quai. Ngự đồng cô khai cuông rồi múa mồi. Hiện nay Cô Năm Suối Lân được phụng thờ là thánh cô trấn giữ cửa Suối Lân Sông Hoá, cung thờ cô được đặt cạnh ngay đền chính của cửa Chầu Năm Suối Lân (huyện Hữu Lũng, Lạng Sơn).

6. Cô Sáu Lục Cung, Cô Sáu Sơn Trang

        Cô Sáu Lục Cung cũng vốn là thánh cô nguyên tích là người Nùng ở đất Hữu Lũng, Lạng Sơn. Có thuyết thì nói rằng Cô Sáu là tiên cô kề cận bên cửa Chúa Thượng Ngàn ở đất Trang Châu (chưa xác định rõ), còn lại đa phần đều thống nhất rằng Cô Sáu là người kề cận Chầu Lục Cung Nương nên cô mới được gọi là Cô Sáu Lục Cung hay còn có danh khác là Cô Sáu Sơn Trang. Khi nhân dân lập đền thờ phụng Chầu Bà, vẫn thỉnh Cô Sáu là cô trấn bản đền Lục Cung. Ngoài ra, theo một số tích cũ kể lại, Cô Sáu Lục Cung sinh thời là người con gái xinh đẹp nết na, lại có tài chữa bệnh, cô thường đi khắp rừng sâu núi thẳm để hái thuốc cứu người vậy nên khi hiển thánh, Cô Sáu vẫn thường được muôn dân tôn là tiên cô có tài chữa bệnh cứu người, dân chúng khắp nơi về cửa cô để xin thuốc tiên trị bệnh. Cô Sáu Sơn Trang cũng nổi tiếng đành hanh trên đời, nghiêm khắc trừng trị kẻ nào nhạo báng cửa cô.

       Trong hàng Tứ Phủ Thánh Cô, Cô Sáu Lục Cung rất hay về ngự đồng. Các thanh đồng đạo quan thường thỉnh bóng Cô Sáu Sơn Trang ngự đồng không chỉ có khi về đền Lục Cung, về đất Lạng Sơn mà cả khi khai đàn mở phủ hay trong cả những dịp hầu vui, đón tiệc tiên thánh. Cô Sáu ngự đồng thường mặc áo lam hoặc áo tím chàm (ngắn vạt rộng tay). Cô ngự đồng khai cuông rồi múa mồi như các tiên cô trên Thượng Ngàn khác. Hiện nay Cô Sáu Lục Cung chính là thánh cô trấn giữ bản đền Lục Cung Chín Tư, cung thờ cô được xây ngay cạnh chính cung đền Chầu Lục Cung Nương (Chín Tư, Hữu Lũng, Lạng Sơn).
    (Mời các bạn click vào đường link này Đền Cô Sáu Lục Cung để xem thêm về Cô Sáu Lục Cung)

7. Cô Bảy Tân La, Cô Bảy Kim Giao, Cô Bảy Mỏ Bạch

        Cô Bảy Kim Giao còn gọi là Cô Bảy Mỏ Bạch. Cô vốn cũng là một tiên cô người dân tộc Mọi ở đền Kim Giao, Mỏ Bạch, Thái Nguyên. Theo một số tích nói rằng cô cũng là người kề cận bên Chầu Bảy nên cũng được gọi là Cô Bảy Kim Giao hay còn có hiệu khác là Cô Bảy Tân La ( khi cô được theo hầu cận Chầu Bảy tại đền Tân La). Tương truyền rằng cô cũng là vị thánh cô có công giúp người dân Mọi biết trồng trọt chăn nuôi rồi cô cũng có công trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược phương Bắc. Vậy theo một số tài liệu thì chính xác Cô Bảy là Cô Bảy Kim Giao hay Cô Bảy Tân La (theo hầu Chầu Bảy Kim Giao) chứ không phải là Cô Bảy Tân An (theo hầu Ông Bảy Bảo Hà ) như một số người vẫn nói. Còn có sự tích nói rằng, đêm đêm cô thường hội họp cùng các bạn tiên nàng, mắc võng đào giữa hai cây kim giao rồi cùng đàn hát.

        Trong hội đồng Thánh Cô, Cô Bảy Kim Giao là một trong số các cô ít khi ngự đồng nếu không nói là hầu như không thấy. Vậy nên nếu để nói đến y phục và cung cách hầu giá Cô Bảy là rất khó, theo phỏng đoán của người viết thì có thể giá Cô Bảy Kim Giao mặc áo tím hoặc chàm xanh, cô ngự đồng khai cuông rồi múa mồi. Hiện nay, Cô Bảy vẫn được thờ làm cô bản đền tại chính cung Đền Kim Giao (Thanh Liên, Mỏ Bạch, Thái Nguyên) và còn cả tại đền Tân La ( Dốc Lã, Bảo Khê, Hưng Yên). Khi hầu tráng mạn đến giá Cô Bảy Kim Giao

8. Cô Tám Đồi Chè 

           Có một số ý kiến thống nhất rằng: Cô Tám Đồi Chè giáng sinh dưới thời Lê Thái Tổ dấy binh khởi nghĩa, cô là người thiếu nữ trồng hái búp chè tại vùng Phong Mục, Hà Trung, Thanh Hoá. Cô cũng có công giúp vua trong công cuộc đánh đuổi giặc ngoại xâm nên khi thác hoá về trời, cô được phong công lập đền thờ, trấn giữ một bên bến song Đò Lèn, Phong Mục. Cô sinh thời là người con gái đảm đang nết na tần tảo, hái búp chè xanh trên đồi thường dung làm thuốc chữa bệnh nên mọi người thường tôn hiệu là Cô Tám Đồi Chè. Khi thanh nhàn, cô thường đủng đỉnh dạo chơi khắp vùng Hà Trung, Thanh Hoá, cũng có khi cô hiện hình bẻ lái con thuyền độc mộc trên dòng sông Mã.
       Trong hàng Tứ Phủ Thánh Cô, Cô Tám Đồi Chè hiếm khi về ngự đồng, chỉ có người nào sát về Cô Tám hoặc khi hầu đón tiệc tháng 6 tại các đền ở vùng Thanh Hoá. Cô Tám Đồi Chè ngự đồng thường mặc áo xanh quầy đen ( có nơi là áo tím hoa cà ) . Cô Tám cũng khai quang sau đó múa mồi, sau đó thường là múa tay tiên các điệu như người đi hái chè trên non. Hiện nay đền thờ Cô Tám Đồi Chè được thờ riêng tại đền cô thuộc đất Phong Mục, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá, nếu đi từ đền Cô Bơ sang thì qua đò Lèn, đền cô rất khang trang nhưng ít người biết tới.

9. Cô Chín Sòng Sơn, Cô Chín Thượng Ngàn

       Đền Cô Chín Sòng Sơn tại Phường Bắc Sơn, thị xã Bỉm Sơn. Nếu từ Hà Nội về Thanh Hóa thì đền Mẫu Sòng nằm ở bên phải đường thì đền Cô Chín Sòng nằm bên trái. Hai đền chỉ cách nhau khoảng 500 m.
      Tương truyền, Cô Chín là hầu cận của Chầu Cửu, Mẫu Cửu. Có tài liệu cho rằng Cô Chín là hầu cận của Mẫu Thoải. 
     Theo truyền thuyêt,  Cô Chín Sòng Sơn vốn là một tiên nữ trên Thiên Đình, có một lần vô tình đánh vỡ một chén ngọc nên Ngọc Hoàng giáng xuống hạ giới để theo hầu Mẫu Liễu Hạnh. Khi được giáng trần Cô đã bôn ba bốn phương khắp ngả trời Nam, sau về đến đất Thanh Hóa thấy cảnh lạ vô biên, cô hài lòng liền hội họp thần nữ năm ba bạn cát, lấy gỗ cây sung làm nhà, còn cây si mắc võng. Nhân dân cầu đảo linh ứng liền lập đền thờ. Có lẽ vì vậy, người ta sau này hay dâng Cô Chín võng đào.
     Hiện chưa thấy tài liệu nào là cô giáng sinh vào một nhân vật nào trên trần gian. Như vậy, thân thế của Cô nghiêng về phía thiên thần.
    Cô Chín Sòng Sơn là một thánh cô có nhiều quyền phép. Những người có căn Cô Chín thường có khả năng xem bói, chữa bệnh và gọi hồn. Tuy nhiên, trong khi giáng hầu Cô Chín chỉ hay cho thuốc chữa bênh.
    Cô Chín rất hay ngự đồng. Hết các thanh đồng khi Hầu Thánh đều có hầu giá Cô Chín. Khi giáng hầu Cô Chín thường mặc áo hồng phơn phớt màu đào phai và cô múa quạt tiến Mẫu. Đôi khi Cô cũng múa cờ tiến Vua, cũng có khi cô thêu hoa dệt lụa, rồi lại múa cánh tiên. Ai cầu đảo cô đều sắm sửa lễ vật: Nón đỏ, hài hoa, vòng hồng hay võng đào.
     Có lẽ Cô Chín là một Thánh Cô nổi tiếng nhất trong các Thánh Cô nên hầu  hết các đền, phủ đều có thờ Cô. Tại các đền phủ, Cô Chín có thể có ban thờ riêng hoặc thờ chung với Cô Bơ hoặc thờ chung trong Cung Tứ Phủ Thánh Cô; hoặc Cô được thờ ở một Lầu Cô riêng biệt: Cung Cô Chín đền Mẫu Sòng Sơn, cung Cô Chín Phủ Quảng Cung.
     Cô Chín ngoài thờ chính tại Đền Cô Chín Sòng Sơn còn có các đền Cô Chín Thượng Bắc Giang, Đền Cô Chín Suối Rồng, đền Cô Chín Tây Thiên....

10. Cô Mười Mỏ Ba ( hay Cô Mười Đồng Mỏ)

         Cô Mười Đồng Mỏ theo hầu Chầu Mười Mỏ Ba, giúp vua đánh giặc Ngô, khi ngự về cô mặc áo vàng cầm cung kiếm cưỡi trên mình ngựa theo chầu bà xông pha trận mạc, sau này cô cũng được thờ tại đền Chầu Mười.
        Thần tích về Cô Mười hiện nay hầu như không có. Người viết chưa sưu tầm được thêm.

11. Cô Bé Thượng Ngàn

    Cô Bé Thượng Ngàn  là Tiên Cô mà tên gọi thường được đặt theo tên các địa danh, các đền thờ. Các vị cô bé đều là những bộ nàng trên Tòa Sơn Trang, hầu Mẫu Thượng Ngàn, có rất nhiều cô bé trên khắp các cửa rừng lớn nhỏ. Các cô về mặc quần áo thổ cẩm, chân quấn xà cạp, đeo kiềng bạc, tay cầm ô, vai đeo gùi. Các cô bé gồm:
  • Cô Bé Thượng Ngàn (Thị Xã Lạng Sơn)
     Đây là nơi thờ chính cung của Cô bé Thượng Ngàn. Ngôi đền nằm ngay sát sông Kỳ Cùng.
  • Cô Bé Suối Ngang (Hữu Lũng)
     Đây là ngôi đền nằm trong rừng thuộc xã Phố Vị, huyện Hữu Lũng. Hiện chưa tìm được thần tích của Cô.
  • Cô Bé Đông Cuông (Yên Bái)
   Đây là ngôi đền nằm ngay đường vào đền Mẫu Đông Cuông, chỉ cách đền Mẫu khoảng vài trăm mét. Thần tích của Cô chưa rõ ràng lắm. Tuy nhiên theo văn hầu của Cô thì:
         Đông Cuông chính là nơi chôn rau, cắt rốn của Cô:
Đông Cuông chính quán quê nhà
Thiên thai cảnh đẹp 1 tòa Sơn Trang
         Mặc dù cô xuất thân từ một gia đình danh gia vọng tộc:
Vốn dòng đài các trâm oanh
Ra tay giáo hoá Cứu người giúp dân
        Nhưng sinh thời và sau khi hiển thánh, cô là một cô bé nhu mì, thùy mị,đảm đang và hay đàn, hay hát:
Mẫu khen cô bé nhu mì
Nết na thùy mị dịu dàng đảm đang
.......
Ngồi trên đỉnh núi ngắm trăng
Tay cô gảy khúc cung ngâm dịu dàng
        Tuy vậy, cô làm việc lại hết sức rõ ràng, phân minh nhưng cũng rất quảng đại. Có tội cô xử, nhưng biết tội, cô tha. Nếu sống nhân, bất nghĩa cô sẽ trừng phạt liền:
Ai mà độc ác bất nhân
Cô liền hóa phép cho thời khốn thay
Biết ra phải tới kêu ngay
Cô cho nước thánh thuốc tiên khỏi liền
Cứu người nửa dại nửa điên
Hiếu thuận thảo hiền cô mới độ cho
       Cô hầu cận Mẫu Đông Cuông và luôn tấu đối với Mẫu để ban tài, ban lộc cho các thanh đồng và con nhang, đệ tử
Ban tài tiếp lộc cho đồng
Cô về tấu đối Thánh Bà Đông Cuông
Lộc tài vượng tiến công danh
Lộc cô vô số trên kho thượng ngàn
  • Cô Bé Chí Mìu:   
  • Đền Cô Bé Chí Mìu nằm ở  bản Chí Mìu, xã Hương Sơn, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Cô bé Chí Mìu là Cô Bé Thượng Ngàn, do đền Cô nằm ở bản Chí Mìu  nên mọi người đều gọi cô theo tên địa danh của đền là Cô Bé Chí Mìu. Cô Bé Chí Mìu được coi là một Cô Bé Thượng Ngàn nổi tiếng nhất tron các cô bé Thượng Ngàn.
  • Cô Bé Tân An (Lào Cai): Từ rất xa xưa, bên bờ sông Hồng tại thôn Tân An 2 thuộc xã Tân An, huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai, đã có một ngôi Đền gọi là Đền Cô Tân An (còn gọi là Đền Cô Bé Thượng Ngàn), là nơi thờ tự một nữ chúa có tên húy là Hoàng Bà Xa, tương truyền đã cùng cha là đức quan ngài Hoàng Bảy, có công chinh phạt giặc ác, giữ yên bờ cõi, được cư dân vùng Bảo Hà và Khau Ban (địa danh Văn Bàn cổ xưa) suy tôn là vị Thánh Mẫu. Đối diện bên kia sông là đền Bảo Hà (huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai)- thờ Đức quan ngài Hoàng Bảy. Vì Nguyễn Hoàng Bà Xa là con gái Quan Hoàng Bảy được thờ ở Tân An nên Cô còn được gọi là Cô Bảy Tân An.
  • Cô Bé Cây Xanh (Bắc Giang)
      Cô Bé Cây Xanh theo hầu Mẫu Thượng Ngàn với hiện thân là Quế Mỵ Nương Công chúa. Mỵ Nương Công Chúa là hiện thân của Mẫu Thượng Ngàn tại vùng Suối Mỡ. Hiện chưa tìm được thần tích về Cô Bé Cây Xanh ở đây.
          Để xem chi tiết về cô bé Cây Xanh Bắc Giang các bạn click vào đường link dưới đây: 
  • Cô Bé Cây Xanh ( Tuyên Quang)
       Cô Bé Cây Xanh là người hầu cận mẫu Thượng Ngàn tại bản đền Cây Xanh Tuyên quang. Ngôi đền này còn có tên là Đề Cảnh Xanh. Đền thờ chính của Mẫu Thượng Ngàn. Hiện chưa phát hiện được thần tích về Cô.
       Để xem chi tiết về cô bé Cây Xanh Tuyên Quang các bạn click vào đường link dưới đây:                Cô Bé cây Xanh Tuyên Quang
  • Cô Bé Nguyệt Hồ (Bắc Giang)
   Cô bé Nguyệt Hồ được thờ tại cung cô tại Đền Nguyệt Hồ. Hiện chưa phát hiện được thần tích về Cô, chỉ biết Cô là hầu cận của Chúa Nguyệt Hồ.
  • Cô Bé Minh Lương (Tuyên Quang)
         Truyền thuyết kể rằng, vào thời nhà Trần (thế kỷ XV), ở tổng Minh Lương, thuộc xã Lang Quán ngày nay có hai vợ chồng, ông chồng là người Dao, bà vợ là người Mường tuổi đã cao mà chưa có con. Ngày ngày ông bà ra ngòi Lịch xúc tôm tép sống lần hồi. Một hôm, ông ở nhà, bà đi xúc tép như mọi ngày, nhưng xúc mãi không được con gì mà chỉ được hai quả trứng lạ. Bực mình, bà xuống hạ nguồn rồi lên tận thượng nguồn ngòi Lịch xúc vẫn chỉ được hai quả trứng ấy. Bà đành mang về thả vào chum nước dưới cầu thang. Ít lâu sau, bà mang thai và sinh ra một cô bé bụ bẫm, đặt tên là Minh Lương. Cùng lúc đó, hai quả trứng thả trong chum nước dưới cầu thang nở ra hai con rắn. Hai con rắn và Cô bé Minh Lương cùng lớn lên, quấn quýt làm bạn với nhau.
        Một buổi chiều, ông bà đi làm về và nhìn thấy hai con rắn quấn chết cô bé. Sẵn con dao rựa đeo bên người, ông tức giận rút dao vừa chém, vừa nói “Mày hại tao à”. Hai con rắn sợ quá chạy trốn, nhưng một con chậm hơn đã bị chém đứt đuôi. Ông đuổi hai con rắn và nói: “Cụt đi hang Mang, Khoang đi hang Đồng”.
       Ông bà xót thương cô bé, không nỡ chôn, nên đặt cô nằm ở trên sàn. Đến sáng đã thấy mối đùn lên đắp mộ cho cô bé. Dân làng thấy vậy đều cho là cô đã linh hoá nên lập miếu thờ. Thời kỳ giặc Cờ đen, cô bé Minh Lương đã hiển linh giúp quan quân triều đình thoát khỏi rừng rậm, sau đó dũng mãnh dẹp sạch giặc Cờ đen. Sau đó Cô còn hiển linh bốc thuốc, giúp dân chữa bệnh thoát cơn hiểm nghèo.
  • Cô Bé Thác Bờ (Hòa Bình)
     Cô bé Thác Bờ được thờ ở đền Chúa Thác Bờ Vầy Nưa, Đà Bắc, Hòa Bình. Cô bé Thác Bờ tương truyền là hầu cận của Chúa Thác Bờ. Hiện chưa tìm được thần tích về Cô bé nơi đây.
  • Cô Bé Sóc (Miền Nam)
        Còn gọi là Cô Bé Đen, mặc khăn áo đen và hồng. Về đồng múa mồi, dùng nhang chữa bệnh. Cô đánh phấn màu đen, phấn đỏ cô để ban khen cho thanh đông cô. Hay về đồng tại Miền Nam.
  •  Cô Bé Mỏ Than( Tuyên Quang)
         Truyện chuyền miệng kể rằng : Thần Kim Quy thấy mỏ quý của vua cha mẫu mẹ tại đền Mỏ Than. Đã rủ cá Kình ở biển Đông về cùng nhau mang hết mỏ quý ra vùng Nam Hải khi đất ở đây chỉ còn là giữa núi và biển, cá Kình đứng gác bên ngoài, thần Kim Quy xuống hang và khi lên tới gần miệng hang thì ông Cóc (ở gần miếu Sơn Thần) đã nghiến răng báo lên thiên đình cho Ngọc Hoàng Thượng Đế, Ngọc Hoàng củ cô Mười xuống. Cô bé cưỡi trên lưng hai con rồng bay xuống thấy khoảng trời u ám có khí lạnh bay lên. Cô nhảy vội xuống với hai vết chân chẹn lên thần Kim Quy, vết chân phải trượt gót mờ, bàn chân trái đè oằn cổ rùa. Bắt rùa hoá đá (Bách gia trăm họ gọi là quy trị bản đền) thần Kim Quy hoá đá thì cà Kình ở biển Đông cũng hoá đá. (Tất cả các cảnh quan của đền quay về nơi phật ngự phương tây riêng có cá Kình quay về phía Đông Bắc). Nhờ Cô Bé Mỏ mà bách gia trăm họ vẫn còn “mỏ tụ đồng” xưa. Đến Pháp tìm ra mỏ than hay còn gọi là vàng đen của đất nước. Hiện nay còn nuôi dưỡng mỏ kim cương non. Cho nên ở chính nơi đây còn tồn tại truyền thuyết Cô Bé Mỏ Than (hay Cô Bé Mỏ Cây Xanh). Cô bắt ông Ba Mươi phủ phục bên mình, cô xin vua cha mẫu mẹ cho cây xanh bao bọc lấy mỏ và bốn mùa toả bóng mát cho cô hoàn thành việc cha việc mẹ. Ngoài ra cô còn chữa bệnh cho bách gia trăm họ. Nhất là những người dở dại dở điên. Những lúc thư nhàn cô gọi đàn chim ngũ sắc về vây quanh ca hát, lúc đi lúc về cổ thường mang sắc thái màu vàng với âm thanh của tiếng chim vàng anh báo biến, báo hiện. Khi cô đi xa cô thường để lại đôi dải thắt lưng màu đen ở lại (đôi long xà có mào) để giữ đền giữ phủ. Người ta truyền rằng ai nhìn thấy ông rắn có mào là người đó được lên danh lên giá. Nhưng người đó phải là người thực tâm không có tâm tà. Xưa những người đàn bà bụng mang dạ chửa phải đi vòng qua cửa cô cách nữa dặm. bất kể ai qua nơi cô ngự đều phải bỏ nón mũ xin cô thực tâm cô phù hộ. Tà tâm cô cho náo loạn gia trung.

12. Cô Bé Thoải Cung

         Cô ngự ở dưới tòa Thoải Cung, Cô rất xinh đẹp, tài giỏi, có thể hô mưa gọi gió... Thần tích về cô hiện chưa sưu tầm được và cũng rõ những nơi nào thờ cô.